TRUYỀN HÌNH DÙNG NGÔN NGỮ KÝ HIỆU, NGƯỜI ĐIẾC CÂM LẠI... KHÔNG HIỂU
Thông dịch nội dung các bản tin trên ti vi và dạy ngôn ngữ ký hiệu cho người điếc câm là những việc làm đẹp và thiết thực. Nhưng, những việc làm ấy vẫn chưa đạt được hiệu quả mà thậm chí còn mang lại những bức xúc.
Từ vài năm nay, việc truyền đạt nội dung các bản tin bằng ngôn ngữ ký hiệu (ngôn ngữ của người điếc câm) trên truyền hình đã được áp dụng tại Việt Nam. Tuy nhiên, có thể ngay cả những người làm công việc này cũng không biết rằng: người điếc câm không thể hiểu nội dung truyền đạt của những phiên dịch viên ngôn ngữ ký hiệu.
Một việc làm vô ích?
Đoàn Phạm Khiêm, có lẽ, hiện đang là người điếc câm có trình độ cao nhất tại Việt Nam. Khiêm đang là sinh viên năm 3, hệ chính quy, khoa Hội họa, Đại học Mỹ thuật TP.HCM. Khiêm biết nhiều ngoại ngữ, đã đọc nhiều sách vở, nhưng anh cho biết: “Anh không hiểu, hoặc có khi hiểu rất ít nội dung ở các bản tin thời sự mà các thông dịch viên ngôn ngữ ký hiệu trên ti vi vẫn truyền đạt”.
Lý do này được Khiêm và các bạn bè mình tại Ban vận động thành lập Hội người điếc câm TP.HCM cho rằng: Những thông dịch viên trên truyền hình là những người bình thường (nghe và nói được) đã chuyển đổi văn bản sang ngôn ngữ ký hiệu một cách không phù hợp.
Những người điếc câm không hiểu thông dịch viên ngôn ngữ ký hiệu trên đài truyền hình Bà Phạm Cao Phương Thảo, mẹ của Khiêm, đã có 30 năm kinh nghiệm chung sống với người điếc câm. Bà Thảo nói: “Khi chuyển sang ngôn ngữ ký hiệu, các thông dịch viên đã rất dài dòng trong việc thể hiện và trình bày nội dung theo văn hóa của người bình thường. Việc đó khiến người điếc câm không hiểu.
Ví dụ: câu 5 chữ: “Mẹ đã đi chợ chưa?” khi chuyển thành ngôn ngữ ký hiệu thì chỉ cần chuyển thành 3 chữ “Mẹ” (nếu người đang được hỏi là Mẹ thì không cần chữ này), “chợ” và “chưa?”. Nếu truyền đạt đủ 5 chữ đầy đủ như câu trên thì người điếc câm lại không hiểu”.
Thêm nữa, theo anh Đoàn Phạm Khiêm, ngoài điệu bộ thì truyền đạt ngôn ngữ ký hiệu quan trọng nhất là việc thể hiện cảm xúc trên nét mặt. Các thông dịch viên trên truyền hình hiện nay lại không hề có bất kỳ cảm xúc nào trên nét mặt, chỉ là thể hiện theo văn bản. Điều này khiến nội dung càng thêm khó hiểu.
Hiện tại, theo bà Thảo, ngôn ngữ ký hiệu của người điếc câm Việt Nam đang có khoảng 1.600 từ. Việc thiếu từ ngữ khiến các câu trong ngôn ngữ ký hiệu thường là rất ngắn, rất hạn chế sử dụng các tính từ ghép khó hiểu.
Chị Trần Thị Tuyết Nhung, một người điếc câm cho biết: “Khi xem các bản tin có người thông dịch ngôn ngữ ký hiệu của các chương trình thời sự của Nhật Bản, Hàn Quốc thì chị Nhung có thể hiểu một phần; nhưng các các chương trình của Việt Nam thì khó hiểu hơn nhiều”.
Người điếc câm Việt Nam và nước ngoài có thể hiểu nhau chút ít qua ngôn ngữ ký hiệu, nhưng khi người Việt Nam (trên ti vi) sử dụng ngôn ngữ ký hiệu mà người điếc câm Việt Nam lại không hiểu thì lại là điều quá ngạc nhiên (?!)
Những thành viên thuộc Ban vận động thành lập Hội người điếc câm TP.HCM) cho rằng: Sự thiệt thòi của người điếc câm so với những dạng khuyết tật khác là do họ không thể nói, không thể trình bày được những quan điểm, bức xúc của mình. Việc thành lập Hội cho họ cũng đang là vấn đề khó khăn.
Anh Tuấn Anh, một người điếc câm khác chia sẻ: “Giá mà màn hình dành cho thông dịch viên lớn hơn một chút, mỗi bản tin có phụ đề chạy kèm phía dưới thì nội dung sẽ đến với người điếc câm dễ dàng hơn. Thậm chí, nếu có thể có chương trình dành cho người nước ngoài, người dân tộc thiểu số… thì tại sao lại không thể co một chương trình ti vi dành riêng cho người điếc câm?”.
Những nguyện vọng không lời
Ở TP.HCM hiện có khoảng 3.800 người điếc câm. Câu lạc bộ người điếc câm của bà Phạm Cao Phương Thảo hiện có 200 thành viên sinh hoạt vào thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần tại trường Tiểu học Hòa Bình, số 1 Công xã Paris, quận 1, TP.HCM. Hiện bà Thảo đang trong thời gian vận động để thành lập hội cho người câm điếc.
Đoàn Phạm Khiêm và các cộng sự đang tích cực thực hiện Bộ từ điển Ngôn ngữ ký hiệu bằng hình ảnh dành cho người điếc câm Bà Thảo cho biết: “Với 200 thành viên trong câu lạc bộ thì 95% không có việc làm. 5% còn lại có công việc thì 2-3 tháng sau cũng bị chủ sử dụng lao động đuổi việc. Người điếc câm dễ dàng bị các tệ nạn xã hội cám dỗ vì bản thân họ không có đủ năng lực bảo vệ mình. nếu được phép thành lập, mục đích cao nhất của Hội sẽ là tạo công ăn việc làm cho toàn bộ những người điếc câm”.
Công việc duy nhất mà người điếc câm có thể làm tốt hơn bất kỳ ai là việc dạy ngôn ngữ ký hiệu. Tuy nhiên, dường như người câm điếc đã vô tình bị “cướp” mất cơ hội này khi mà gần đây, rất nhiều trung tâm dạy ngôn ngữ ký hiệu do người nghe nói được đã mở ra.
Với 10 năm giảng dạy, anh Đoàn Phạm Khiêm hiện tại đang là người Việt Nam đầu tiên có chứng chỉ giảng dạy, phân tích kỹ thuật múa dấu ngôn ngữ ký hiệu của một chương trình do Việt Nam phối hợp với Đại học Gallaudet (Hoa Kỳ). Anh Khiêm cho biết: “Việc dạy Ngôn ngữ ký hiệu chỉ ưu việt nhất khi người dạy là người điếc câm. Cũng như người Anh sẽ dạy tiếng Anh hay hơn người Việt dạy tiếng Anh, ngôn ngữ ký hiệu có văn hóa, lịch sử, ngữ pháp riêng, chỉ dành cho người điếc câm. Người điếc câm hiểu điều này hơn người nghe nói được. Nên chăng, xã hội hãy để dành công việc duy nhất mà người điếc câm làm tốt trở về đúng với vị trí của nó”.
Những người điếc câm ở TP.HCM mà chúng tôi đã gặp đều có chung một nguyện vọng: muốn được gặp lãnh đạo thành phố để được bày tỏ những mong muốn của cộng đồng mình đối với xã hội. Bản thân họ không muốn trở thành gánh nặng hay sự thương hại xã hội. Họ có đôi chân và muốn đứng vững trên đôi chân của họ.
Vậy thì, tại sao lại vô tình đóng mất cánh cửa hòa nhập cộng đồng của họ ở những nghĩa cử tưởng chừng như đẹp đẽ nhất?
Theo Tiến sỹ Ngôn ngữ học Huỳnh Văn Thông, trưởng Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM: “Việc thông tin giữa các thông dịch viên ngôn ngữ ký hiệu trên truyền hình và người điếc câm bị hạn chế có thể là do các thông dịch viên chưa nắm được những quy tắc ngữ dụng khi truyền đạt thông tin đối đối tượng mình phục vụ. Để làm tốt điều này, cả hai bên, mà đặc biệt là các thông dịch viên cần có sự trao đổi thông tin dể hiểu hơn người điếc câm”.
Tiến sỹ ngôn ngữ Nguyễn Thị Phương Trang, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn cho rằng: “Việc dạy ngôn ngữ ký hiệu nên dành cho những người am hiểu ngôn ngữ này, đồng thời, phải là người có giao tiếp và hiểu biết sâu sắc với cộng đồng người câm điếc thì việc dạy và học mới đạt được kết quả tốt nhất”.
Đặng Sinh (zing.vn)
Có nên thay thế các từ “mù”, “điếc” Bằng các từ “khiếm thị”, “khiếm thính” không?
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều người dùng các từ “khiếm thị”, “khiếm thính” thay cho cách nói thong dụng : “mù”, “điếc”. Họ cho rằng cách nói này nặng nề, làm tốn thương đến lòng tự trọng của những người có khuyết tật ấy.
Thực ra thì những từ “mù”, “điếc” đều có ý nghĩa trung tính, không hề bao hàm một ý nghĩa tiêu cực nào. Vì vậy mà tổ chức của những người không có khả năng nhìn thấy được ở nước ta được đặt tên là “ Hội người mù Việt Nam”, chứ không ai gọi là “Hội người khiếm thị Việt Nam” và những người mù không hề cảm thấy bị xúc phạm chút nào.
Đi sâu xem xét về phương tiện cấu tạo từ, từ cách tạo ra các từ ghép “khiếm thị”, “khiếm thính” từ các thành tố gốc Hán cũng không được ổn. “khiếm” là một tính từ có nghĩa là “thiếu”; “thị” và “thính” là những động từ có nghĩa là “thấy”, “nghe”. Nếu theo nghĩa sát sao của các thành tố thì “khiếm thị” là “thiếu thấy”, và “khiếm thính” là “thiếu nghe” : các cách nói như vậy là không xuôi tay, và không diễn đạt được điều cần nói là không có mất khả năng thấy hay nghe.
Vậy không việc gì phải chối bỏ các từ Việt quen thuộc được dùng từ lâu “mù”, “điếc” để tìm đến những từ gốc Hán lủng cũng như vậy.
Lê Hoài Nam Cử nhân văn chương Phó giáo sư nguyên Hiệu trường Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn ------**------